Tiếp tục thực hiện tốt lời Bác dạy về công tác thương binh, liệt sỹ
(Nguồn: https://www.hochiminh.vn/)
2024-07-05T16:07:20+07:00
2024-07-05T16:07:20+07:00
https://duongminhchau.tayninh.gov.vn/vi/news/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/tiep-tuc-thuc-hien-tot-loi-bac-day-ve-cong-tac-thuong-binh-liet-sy-5518.html
https://duongminhchau.tayninh.gov.vn/uploads/news/2024_07/image-20240705154924-1.jpeg
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ DƯƠNG MINH CHÂU
https://duongminhchau.tayninh.gov.vn/uploads/logo.png
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ, những người có công với cách mạng, đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc, nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, những người có công với đất nước.
1. Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng cách mạng, những người yêu nước, đã hy sinh nơi chiến trường ác liệt. Ca ngợi sự hy sinh to lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…”.
Theo Người, công tác thương binh, liệt sỹ là một hình thức xây dựng tượng đài kỷ niệm trong lòng dân chúng. Các thế hệ phải ghi nhớ công ơn, những chiến công hiển hách của những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày 17/7/1947, Người viết thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, nhấn mạnh ý nghĩa cao quý của sự hy sinh ấy: “khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Từ những tình cảm trân trọng, tiếc thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát quan điểm về thương binh, liệt sỹ, là những người: “quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là những thương binh, đó là tử sỹ”. Hồ Chí Minh đã nâng tầm công tác thương binh, liệt sỹ lên như một hoạt động văn hóa, một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, truyền thống nhân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam.
Không chỉ ca ngợi thương binh, liệt sỹ, mà từ lời nói, đến việc làm, Hồ Chí Minh đều gương mẫu đi đầu trong những hành động thiết thực. Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, vừa khẳng định công lao, đóng góp của họ, vừa động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”. Mỗi dịp lễ, Tết, ghi nhớ công lao của các liệt sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sỹ Hà Nội, nhắn nhủ ân tình: “Ngày mai là năm mới.... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”. Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ lương hưu, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ”; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy tặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân chương, huy chương cho các liệt sỹ, thương binh.
Bác Hồ thăm các thương binh nặng ở trại điều dưỡng Bắc Ninh. Ảnh tư liệu
Trước lúc đi xa, về nơi vĩnh hằng, trong Di chúc thiêng liêng của Người, căn dặn Đảng và Nhà nước, nhân dân ta về công tác thương binh, liệt sỹ: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng Hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thương binh, liệt sỹ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, thu hút sự tham gia của mọi đối tượng, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam.
Tác giả: (Nguồn: https://www.hochiminh.vn/)